Cuộc đời “Tha phương” của người phu mộ
Việt
nam tại Tân đảo.
Cụ cố ĐỒNG Sỹ Hứa (1915-2015)
Do Jean Van Son biên soạn, dich thuật và trích dẫn
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ cố Đồng Sỹ Hứa (1915-2015) và 10
năm ngày cụ Hứa qua đời tại Hà nội (2005-2015).Tác giả Blog Tân đảo Xưa và Nay
xin trân trọng giới thiệu bài viết về cụ Hứa của Patrick O’REILLY đăng trên thư
mục « HEBRIDAIS ».
Trước hết xin tóm lược đôi điều về Cụ cố Đồng sỹ Hứa :
·
Hứa (Đồng
Sỹ) (1915-2005). Quê
ông ở làng Mậu Tài ngoại thành Thành phố
Huế. Năm 1938, Ông là một trong những quan chức được chính phủ Bảo hộ biệt phái
sang làm quan phán tại Văn phòng Chánh xứ Pháp ở Port Vila New Hebrides. Đến
năm 1946, ông xin từ chức quan phán để lãnh đạo bà con Việt kiều thành lập Liên
đoàn Thợ thuyền VN tại Tân đảo. Tháng 6 năm 1946, ông lãnh đạo phong trào đấu
tranh đòi tầu Hồi hương, đòi quyền tự do tìm chủ, tự do làm ăn, tự do đi lại.
Ông có công lớn trong việc xây dựng Trại VN số 2 Tagabe và Hội Việt nam Công đoàn Tân đảo.
Ông là một người thẳng tính, cương trực. Tuy làm việc cho chính quyền Pháp tại Tân đảo nhưng ông không hề hạ thấp mình và luôn tìm cách để bảo vệ quyền lợi của đồng bào mình. Các chủ đồn điền cũng như chính quyền sở tại cũng không ưa gì tính khí của ông. Nhưng lại rất nể phục trình độ kiến thức và tài biện luận của ông. Họ kháo nhau rằng: ông ta là một cử nhân luật. Bởi thế, sau khi đệ đơn từ chức quan phán, chính quyền Pháp đã yêu cầu ông tiếp tục ở lại làm việc. Nhưng ông đã từ chối.
Ông và gia đình đã bị chính quyền địa phương trục xuất về VN cùng với đông đảo cán bộ chủ chốt của Hội Việt nam Công đoàn năm 1947 trên con tầu Ville d’Amiens.
Ông bị quan thúc ở Huế, sau đó thoát ly đi theo kháng chiến. Hoà bình, ông làm cán bộ cao cấp tạiTổng Công đoàn VN ở Hà nội.
Ông có công lớn trong việc xây dựng Trại VN số 2 Tagabe và Hội Việt nam Công đoàn Tân đảo.
Ông là một người thẳng tính, cương trực. Tuy làm việc cho chính quyền Pháp tại Tân đảo nhưng ông không hề hạ thấp mình và luôn tìm cách để bảo vệ quyền lợi của đồng bào mình. Các chủ đồn điền cũng như chính quyền sở tại cũng không ưa gì tính khí của ông. Nhưng lại rất nể phục trình độ kiến thức và tài biện luận của ông. Họ kháo nhau rằng: ông ta là một cử nhân luật. Bởi thế, sau khi đệ đơn từ chức quan phán, chính quyền Pháp đã yêu cầu ông tiếp tục ở lại làm việc. Nhưng ông đã từ chối.
Ông và gia đình đã bị chính quyền địa phương trục xuất về VN cùng với đông đảo cán bộ chủ chốt của Hội Việt nam Công đoàn năm 1947 trên con tầu Ville d’Amiens.
Ông bị quan thúc ở Huế, sau đó thoát ly đi theo kháng chiến. Hoà bình, ông làm cán bộ cao cấp tạiTổng Công đoàn VN ở Hà nội.
Chân dung người công nhân Phu mộ Việt nam ở Tân đảo
Phỏng dịch
Trích đoạn trong thư mục “HEBRIDAIS” của nhà nghiên cứu lịch sử nhân
loại: Patrick O’REILLY
Chế độ đồng quyên cai trị dưới tên
“Condominium” ở Tân đảo có đặc quyền sở hữu văn bản ghi chép danh mục của các
nhân vật danh tiếng nhất thời bấy giờ như: các chủ đồn điền, các
doanh nhân, các nhà cầm quyền Pháp và
Anh, các nhà truyền giáo của các loại đạo.
“HEBRIDAIS” tức Người Tân đảo là tên một
danh mục trong Tư liệu tham khảo sinh
học về Tân đảo của ông Patrick O’REILLY, do nhà phát hành
Societe Oceaniste xuất bản. Nhà số 8, Musee de l’Homme, Paris 1957.
Bao gồm
cả một kho dữ liệu về sinh thái của con người trên mảnh đất này. “Một tác phẩm đặc
trưng dựa trên phương pháp khoa học đã
được tác giả chập nhận”. Trích đoạn như
sau:
ĐỒNG SỸ HỨA – Người Việt Nam
(Sinh ở Huế năm 1915 và mất ở Hà nội năm 2005
– chú dẫn của người dịch).
Ông Đòng Sỹ Hứa đến Tân đảo vào tháng 9 năm 1938 với tư cách là một người công nhân phu mộ (a). Sau đó ít lâu ông đã được phong làm thư kí – phiên dịch (quan phán) tại Toà sứ Pháp và Anh. Hợp đồng của ông hết hạn năm 1941 nhưng không hồi hương về VN được vì không có chuyến tầu nào nữa do chiến tranh bùng nổ. Nhà chức trách đã đề nghị ông tiếp tục sự nghiệp mà ông đã từng phục vụ một cách tận tuỵ trong thời gian qua.
Ông Đòng Sỹ Hứa đến Tân đảo vào tháng 9 năm 1938 với tư cách là một người công nhân phu mộ (a). Sau đó ít lâu ông đã được phong làm thư kí – phiên dịch (quan phán) tại Toà sứ Pháp và Anh. Hợp đồng của ông hết hạn năm 1941 nhưng không hồi hương về VN được vì không có chuyến tầu nào nữa do chiến tranh bùng nổ. Nhà chức trách đã đề nghị ông tiếp tục sự nghiệp mà ông đã từng phục vụ một cách tận tuỵ trong thời gian qua.
Sau
khi Chiên tranh Thế giới kết thúc năm 1945, thì cũng là lúc mà toàn bộ phu mộ
Việt nam gồm khoảng 3.020 người cũng đã hết hạn hợp đồng làm việc theo giao kèo
với các chủ đồn điền tại Tân đảo và đòi
quyền hồi hương tức thời về VN. Trong số
đó tất nhiên có ông Đồng Sỹ Hứa. Nhưng rồi không có chuyến tầu nào năm 1945
cũng như năm 1946.
Tấm thẻ Hội viên Công đoàn VN Tân đảo
Việc
hồi hương phải đình hoãn nhiều lần do không có tầu chuyên chở. Những sự kiện
xẩy ra ở Đông dương mà nước Pháp phải
đương đầu với Việt Minh, công với sự chờ đợi mệt mỏi của những thợ thuyền mãn
hạn giao kèo đã dấy lên một làn sóng công phẫn, một phong trào rộng lớn đòi hỏi
quyền lợi về tự do và công lý.
Lý
do đó đã khiến ông Đồng Sỹ Hứa, nhà lãnh đạo của phong trào “Việt minh” tại địa
phương, đã xin từ bỏ chức vụ “quan phán” với Nhà Chức trách để chuyên tâm về
việc phát động và mở rộng phong trào tổ chức công đoàn thợ thuyền và khơi dậy
tinh thần dân tộc Việt nam
Khu Đề-bô - nơi tập trung người phu mộ VN từ Hải phòng đến và đi.
Tháng
giêng năm 1947, tầu “Ville d’Amiens” đã thực hiện chuyến đầu tiên, chở 550
người về Hải phòng. Nhưng chuyến tiếp theo không thực hiện được làm cho trên
800 người ở Vila và Santo, cộng với 140 người ở Malicôlô phải chờ đợi vô thời
hạn. (b).
Đê
phản đối sự lơ là của nhà Chức trách, ông Đông Sỹ Hứa đã tổ chức “tổng đình
công” với lý do là người Việt nam không muốn
tiếp tục làm việc , vì nuớc Pháp
gây chiến tranh với đồng bào của họ ở Việt nam.
Hội Liên đoàn Ái hữu VN Tân đảo tổ chức kéo cờ đỏ sao vàng ngày 30/6/1946
tại Thủ phủ Port Vila
Ông
đã tổ chức và điều động các cuộc biểu tình phản kháng. Bằng chứng là trong văn bản thông tư 163 ngày 5 tháng giêng đã nhấn
mạnh nguyên nhân lý do chính trị xã hội, dẫn đến cuộc biểu tình thị uy quy mô cực kì
to lớn , diễn ra chỉ mấy ngày sau
đó tại Thủ phủ Port Vila gây tinh hình
căng thẳng làm cho Nhà Chức trách địa phương hết sức lo ngại.
Toàn cảnh khu Đề-bô và Thủ phủ Port Vila
Bởi
vì lực lượng của họ với vài chục tên lính bảo an binh thì quá yếu so với lực
lượng biểu tình. Họ quan ngại là không đủ mạnh để có thể làm chủ được tình thế
lúc bấy giờ. Các kiều dân khác thì lo sợ cho tính mạng và tài sản của họ, đồng
thời còn lo ngại đến một cuộc “lật đổ” chính quyền nữa.
Tại
Santo, hàng ngàn người biểu tình đã bao vây toà công sứ và gây náo động (c).
Trong các đồn điền, thợ thuyền Việt nam đã làm chủ tình hình, chiếm cứ các cơ
sở của chủ đồn điền.
Hội Liên đoàn Ái hữu VN tại Tân đảo năm 1946
Ông
Đòng Sỹ Hứa về sinh sống tại Tagabê, một khu trại tập thể mà người ta trồng rau
là chính.
Trong
cảnh “nhàn cư vi bất thiện”, dân chúng hoành hành, bắt trộm súc vật, tàng trữ
vũ khí do quân đội Mỹ đẻ lại, đua nhau bán rượu lậu cho dân bản xứ.(d)
Tình
hình căng thẳng buộc nhà Chức trách kêu gọi Chính phủ Pháp điều động tầu tuần
dương hạm Dumont d’Urville về Port Vila,
Norsup và Santo nhằm uy hiếp tinh thần người Việt nam. Nhờ sự dũng cảm của Chỉ
huy tầu và nhưng lời hứa sẽ tổ chức thu xếp tầu hồi hương đã làm cho tình thế
bớt căng thẳng.
Chiến hạm Dumont d'Urville từ Noumea về Port Vila uy hiếp Cộng đồng
thợ thuyền VN tại Tân đảo.
Nhưng
không phải ai cũng đồng tình cả, vì trong số đó có ông Cao là người chống dối
lại chủ trương bất hợp tác của ông Đồng Sỹ Hứa. (e)
Ngày
25/08/1947, ông Đồng Sỹ Hứa và gia đình cùng với 470 người lớn và 330 trẻ em đã
hồi hương trên chuyến tầu “Ville d’Amiens” về Hải phòng.
Người
ta cũng tò mò muốn biết rõ sự thay đổi kì lạ ở một con người, mà trước đó 8 năm
ông ta đã tỏ ra tận tuỵ mẫu mực và cung kính với Nhà Chức trách, nay bỗng nhiên
trở thành một lãnh tụ đối lập không khoan nhượng. Phải chăng là do tinh thần tự
hào dân tộc cao độ đã thúc đây ông ta.
Có
thể là sự bùng phát của một tâm tư đau khổ bị đè nén quá lâu trước những sự bất
công và sự lạm dụng uy quyền quá đáng của chính quyền sở tại.
Nhưng
cũng có thể là ông ta đã giác ngộ và hồi tâm, mong muốn làm một việc nhân đạo
trước đồng bào của ông, nhằm tự giải
thoát cho mình về những hoạt động sai lầm trước đó dưới sự thống trị của chính
quyền sở tại chăng?
Cũng
có thể ông đã tự tạo cho mình một thế đứng để sau này khi hồi hương về nước với
danh nghĩa như một vị “cứu tinh” đã giải thoát cho đồng bào mình khỏi ách thống
trị thực dân chăng?
Người
ta vẫn mong muốn tìm hiểu để biết rõ hơn về con người vĩ đại này, một con người
kín đáo thông minh, nóng tính và đầy tham vọng sau khi hồi hương về một đất
nước hoàn toàn độc lập, tự do sẽ ra sao khi ông đã viết bức tâm thư cho cấp
trên thuở trước như sau: “là người hoạt động Công đoàn, là người Việt nam không
có nghĩa là tôi chống đối lại nhân dân Pháp”.
Chú thích về những dữ liệu không có trong văn bản:
a. Ông Đông Sỹ Hứa cũng như ông Nguyễn Đức
Thận và Hoàng Vĩnh Lạc là những công chức của chính quyền bảo hộ. Được biệt
phái sang Tân đảo – Tân Thế giới năm 1938.
b. Trên thực tế nhà Chức trách đã phải xây
dựng một trại tập trung lớn ở mom Malapoa để tiếp nhận số người ở Santo và
Malicôlô về đây để “chờ tầu”. Thời bấy giờ các cụ đặt trại này là Đề-bô “Thiên lập”.
c. Trong cuộc biểu tình ngày 27/03/1945 tại
Santo, hai phu mộ VN đã bị tên Berthault bắn chết tại chỗ là ông Mai viết Túc
và ông Nguyễn Văn Tráng.
d. Hoạt động của Việt nam Công đoàn Tân đảo
thời bấy giờ bị coi là quá khích. Ban cảnh vệ được trang bị súng đạn của quân
đội Mỹ để lại. Cụ thể là ngày 30/06/1946, trong cuộc diễu hành trên đường phố
giừa thủ phủ Port Vila, đoàn cảnh vệ mặc quần áo trắng, đầu đội ca-lô trắng,
đeo băng đỏ. Vai mang súng trường. Mấy ông đi đầu còn đeo súng lục, rât hiên
ngang.
e. Theo chị Nguyễn Thu Lan là con gái cụ
Phán Nguyễn đức Thận sinh sống tại Mỹ, thì năm 1938 Nhà Chức trách Pháp đã đưa
3 người sang làm thông phán. Cụ Nguyễn đức Thận được cử sang Nouméa. Cụ Hoàng
Vình Lạc đi sang Santô và cụ Đồng Sỹ Hứa ở lại làm viêc ở Toá sứ Vila. Có tin
cụ Hoàng Vĩnh Lạc bị mất tích ở Santô.
Hai cụ Thận và Hứa đều bị trục xuất về Hải phòng.
Thủ phủ Port Vila (năm 1950)
Nguyên văn bản tiếng Pháp
La Diaspora des Vietnamiens
aux Nouvelles Hébrides
Extrait du
Répertoire de Patrick O’REILLY intitulé “HEBRIDAIS”
Le condominium des Nouvelles-Hébrides eut droit, lui aussi, à un répertoire qui nous présente ses personnalités les plus marquantes: colons, commerçants, administrateurs français ou anglais, missionnaires de toutes dénominations :
« HEBRIDAIS » Répertoire
Bio-bibliographique des Nouvelles-Hébrides de Patrick O’REILLY, publication de
la Société des Océanistes, N° 6, Musée de l’Homme, Paris 1957.
Une mine de renseignements sur la
population active de ce territoire. "Un ouvrage attachant par la rigueur
scientifique de sa méthode et l'agrément de la présentation". Extrait :
ĐỒNG SỸ HỨA
- Vietnamien.
Pénètre aux
Hébrides comme travailleur sous contrat en septembre 1938. Quelque temps après
son arrivée, est nommé secrétaire-interprète des Résidences.
Son contrat expiré en 1941, et son rapatriement étant impossible, l'Administration « fait appel à son dévouement pour continuer ses services comme par le passé ».
En 1945, à la fin de la Seconde Guerre mondiale, 3 020 travailleurs indochinois demeurent, leur temps de service plus qu'achevé, aux Hébrides, qui demandent à être rapatriés d'urgence. Dong Sy Hua est naturellement du nombre. Aucun rapatriement en 1945. Aucun en 1946.
Les délais motivés par le manque de navires disponibles, les événements d'Indochine où la France lutte contre le Vietminh, l'oisiveté où vivent beaucoup de ces anciens travailleurs créent un climat favorable à des manifestations collectives et à des revendications.
C'est alors
que Dong Sy Hua, le chef du mouvement Vietminh local, le 27 août 1946, donne sa
démission de secrétaire pour se consacrer à une propagande syndicaliste et
nationaliste.
En janvier,
par la Ville d'Amiens, un premier départ a bien lieu, qui évacue 550 Tonkinois.
Mais comme le prochain départ est toujours remis sine die, c'est à Vaté, comme
à Santo 800 Vietnamiens adultes - et 140 autres à Mallicolo - qui attendent
leur retour au pays natal.
Comme protestation, contre l’incurie de l'Administration, Dong Sy Hua fait cesser le travail disant que ses compatriotes ne veulent pas travailler pour les Français, en guerre avec leur pays.
Il règle des manifestations protestataires. Sa circulaire 163, du 5 janvier, par exemple, donne les raisons politiques et sociales et organise dans le détail un bruyante parade, menée spectaculairement quelques jours plus tard à Port Vila et qui inquiète les colons et l'Administration.
Comme protestation, contre l’incurie de l'Administration, Dong Sy Hua fait cesser le travail disant que ses compatriotes ne veulent pas travailler pour les Français, en guerre avec leur pays.
Il règle des manifestations protestataires. Sa circulaire 163, du 5 janvier, par exemple, donne les raisons politiques et sociales et organise dans le détail un bruyante parade, menée spectaculairement quelques jours plus tard à Port Vila et qui inquiète les colons et l'Administration.
Cette dernière, n'ayant que quelques miliciens timorés pour assurer l'ordre, redoute de ne pouvoir contrôler la situation. Les autres tremblent, se croient menacés dans leurs biens et leurs personnes, et parlent d'un « soulèvement ».
A Santo les manifestants cernent trois jours durant la Résidence et créent des troubles. Ici et là les travailleurs se sont installés en maîtres dans des dépendances de plantations ou des baraquements américains. Dong Sy Hua vit à Tagabé, dans une sorte de phalanstère cultivant des légumes.
Tout ce monde, oisif, pille le bétail, dissimule des armes obtenues des Américains, vend de l'alcool aux indigènes.
Fin juillet l'aviso Dumont d'Urville va faire une apparition à Port Vila, à Norsup et à Santo. Le sang-froid de son commandant et l'assurance qu'il apporte de la prochaine venue d'un navire ramène les Annamites à la raison.
Ceux-ci, du reste, sont divisés, et en viennent parfois aux mains, Cao, Vietnamien, étant partisan de la continuation du travail, Dong Sy Hua, restant opposé à toute coopération.
Dong Sy Hua quitte les Hébrides par la Ville d,'Amiens le 25 août 1947 avec 470 adultes et 330 enfants rapatriés.
Il serait curieux de savoir ce qui motiva chez cet homme, huit années durant ponctuel et déférent serviteur de l’Administration, cette transformation soudaine en un chef d'opposition violente.
S'agit-il d'une vive poussée d'un jeune et exubérant sentiment de nationalisme ?
Faut-il voir là la brusque détente d'une indignation longtemps refoulée devant les exactions et les sévices d'un maladroit régime de servage, prolongé au-delà des limites ?
Voulut-il, plus humainement, après des années de compromission à l'ombre des colons et dans l'obédience d'une administration qu'il aida dans ses abus et ses faiblesses se dédouaner avant de rentrer chez lui ?
Chercha-t-il dans cette affaire une plate-forme politique pour une future action au pays, avec une auréole, assez facilement obtenue, de « Libérateur » ?...
On aimerait savoir ce qu'est devenu, homme libre de retour dans un pays totalement indépendant, cet intelligent, courtois et ombrageux Vietnamien qui écrivait un jour à son chef hiérarchique : « Être syndicaliste et être vietnamien ne signifie pas être antifrançais. »
Article paru le 4 janvier 2005
TRIBUNE LIBRE
TRIBUNE LIBRE
En Mémoire de DONG Sy Hua (1915-2015)
2005
«Le Vieux Crabe »
«Le Vieux Crabe »
Décès à Hanoi de Dong Sy Hua. On avait pris l’habitude de l’appeler « le Vieux Crabe ». L’un d’entre nous, Alain Wasmes me semble-t-il, lui avait naguère donné ce surnom. La raison de ce sobriquet se perd dans la nuit des temps. Peut-être parce que sa carapace paraissait indestructible. Peut-être parce que son visage tournait souvent au rouge, lorsqu’il s’énervait. Plus probablement parce qu’il aimait (oh ! un tout petit peu plus que de raison) l’alcool et qu’il marchait parfois un peu de travers.
Dong
Sy Hua, c’était son nom, nous a quittés, la semaine dernière, à l’âge
de
quatre-vingt-dix ans. Il avait été, naguère, de tous les combats contre la
domination coloniale française. Son frère avait été tué par les Français.
Mais,
comme il aimait à le dire, il était tout autant anticolonialiste acharné que
francophile convaincu (c’était le sous-titre de son livre de Mémoires). Il
faisait partie de ces Vietnamiens qui pouvaient nous faire honte, tant ils
étaient capables de citer des pages entières de Hugo ou de Maupassant.
Surtout,
il était un pur internationaliste, comme cette génération de Vietnamiens en a
tant compté. Il était très attaché au PCF, à l’Huma, dont des numéros, le plus
souvent anciens, parfois un peu déchirés, traînaient toujours chez lui. C’est
tout naturellement qu’il se présentait à chaque nouveau correspondant permanent
de l’Huma à Hanoi et qu’il se montrait vite indispensable. Il a rendu mille et
un services à notre « dynastie ».
Combien
d’entre nous lui doivent un entretien rapide avec Pham Van Dong ou Vo Nguyên
Giap, lorsque l’actualité l’exigeait ? Combien d’articles de la presse
vietnamienne a-t-il traduits pour nous, de son écriture serrée, dans son
français parfois un peu suranné ! Combien de fois nous a-t-il donné
officieusement des infos de première qualité, qui permirent à notre journal
d’être souvent le mieux servi ?
Adieu, « Vieux Crabe », on t’aimait bien, et même un peu plus. Je crois bien qu’il n’y a pas de paradis. Mais il existe une place dans nos coeurs pour toi.
Alain Ruscio
Article paru le 4 janvier 2005
TRIBUNE LIBRE
Phỏng
dịch
2005
« Cụ Cua già »
Ông Đồng sỹ Hứa đã qua đời tại Hà nội.
Chúng ta quen gọi Người là « Cụ cua già ». Hình như Alain Wasmes, anh
bạn của chúng ta đã mệnh danh con người này với cái tên như thế. Rồi ý tứ của
biệt danh này cũng đã đi vào quên lãng. Có lẽ do cái vỏ bọc cứng rắn của con
người này. Có lẽ cũng do sắc mặt của ông
dễ dàng chuyển sang mầu đỏ tía lúc căng thẳng. Nhưng cũng có thể là do ông ta
thích ứng nhanh chóng (với chút nồng độ của rượu cồn khi quá chén) đến mức độ
chân nam đá chân siêu thì phải.
Ông Đồng sỹ Hứa đã vĩnh biệt chúng ta
tuần trước, thọ 90 tuổi. Suốt đời ông đã chiên đấu không ngừng chống lại sự
thống trị của thực dân Pháp. Người em trai ruột của ông đã bị Pháp giết hại.
Nhưng ông thường ưa nhắc lại câu đã được chú trong cuốn Hồi ký của ông : « bản thân tôi là một người chống đối chế độ thực dân không khoan nhượng, nhưng cũng là người thực sự yêu quý nước Pháp hết mức ». Ông là một trong số những người Việt nam đã làm cho người Pháp chúng ta đôi khi phải hổ thẹn, vì họ có thể dễ dàng đọc thuộc lầu cả trang sách của Victor Hugo hoặc Maupassant.
Nhất là, ông lại là một người theo chủ nghĩa quốc tể thực thụ, cùng thế hệ nhũng người Việt nam lúc đó luôn tin tưởng. Ông ta rất gần gũi với Đảng Cộng sản Pháp, với báo Nhân đạo mà nhiều tờ đã cũ gần rách nát nằm rải rác trong nhà ông. Một cách tự nhiên ông thường giới thiệu với phóng viên của báo Huma mới đến Hà nội công tác mà ông đã tỏ ra rất đắc dụng. Ông ta đã giúp đỡ giải quyết muôn vàn khó khăn cho công việc của chúng tôi.
Nhờ có ông mà bao người chúng ta khi cấp thiết đã có được cơ hội để gặp gỡ trao đổi chớp nhoáng với cố Thủ tương Phạm Văn Đồng hay Đại tướng Võ Nguyên Giáp ? Biết bao nhiêu tư liệu báo chí Việt nam ông đã dịch thuật giúp chúng ta, với chữ viết chặt chẽ, theo lối văn phạm thời cổ. Bao lần ông đã cung cấp những thông tin nóng hổi, giúp cho tờ báo của chúng ta cập nhật nhanh chóng ?
Xin vĩnh biệt, « Cụ Cua già »,
chúng tôi yêu quý ông biết bao, mà còn nhiều hơn nữa. Tôi tin là không có Thiên
đàng. Nhưng trong trái tim của chúng tôi luôn dành cho người một vị trí xứng
đáng.
Alain Ruscio
Bài viết đăng ngày 4 tháng giêng năm
2005.
DIỄN ĐÀN TỰ DO.
Tân đảo Xưa và Nay xin chân thành cảm ơn quý ông bà, anh chị em đã quan tâm theo dõi.
Xin kính mời quý vị bấm vào Link này để xem hình ảnh của Vanuatu (Tân đảo) do JVJ thực hiện.
http://www.panoramio.com/user/5191672